
Tài năng và lòng say mê toán học của ông hình thành rất sớm.
Sau khi tốt nghiệp Phổ thông một cách xuất sắc, ông ôm ấp hoài bão đi sâu và toán học. Bố của ông muốn ông trở thành một kĩ sư vì nghề này kiếm được hiều tiền hơn. Nhưng ông đã quyết tâm học sâu về toán và cuối cùng ông thuyết phục được cha bằng lòng cho ông theo học ngành Toán.
Ông viết thư cho cha đại ý như sau: “Con rất sung sướng vì cha đã đồng ý cho con theo đuổi hoài bão của con. Tâm hồn con, cơ thể con sống theo hoài bão ấy”.
Ông bảo vệ luận án tiến sĩ tại trường Đại học Bec-lin vào năm 1867. Từ năm 1869 đến năm 1905, ông dạy ở trường Đại học Ha-lơ (Halle). Ông là người sáng lập nên lí thuyết tập hợp. Ngay sau khi lí thuyết tập hợp ra đời, lí thuyết tập hợp đã là cơ sở cho một cuộc cách mạng trong viết sách và giảng dạy toán.
Những công trình toán học của ông đã để lại dấu ấn sâu sắc cho các thế hệ các nhà toán học lớp sau. Năm 1925, Hin-be (D. Hilbert), nhà toán học lỗi lạc của thế kỉ XX đã viết: “Tôi đã tìm thấy trong các công trình của ông vẻ đẹp của hoa và trí tuệ. Tôi nghĩ rằng đó là đỉnh cao của hoạt động trí tuệ của con người”.
Từ năm 40 tuổi, tuy có những thời kỳ đau ốm phải nằm viện nhưng ông vẫn không ngừng sáng tạo. Một trong những công trình quan trọng của ông đã được hoàn thành trong khoảng thời gian giữa hai cơn đau. Ông mất ngày 06-1918 tại một bệnh viện ở Ha-lơ, thọ 73 tuổi.